Bọ Mảy chữa viêm họng, đại tràng, giải độc
Bọ Mảy (tên khoa học: Clerodendrom cytophyllum Turcz.) tác dụng chữa sởi, viêm họng, chảy máu chân răng, trị lỵ cấp tính và viêm đại tràng mãn tính. Dùng uống sau khi đẻ để chữa ho, thông huyết.
Bọ mẩy
Tên gọi khác: Đại thanh.
Bộ phận dùng: lá (Folium Clerodendri – có nơi gọi là Đại thanh diệp), rễ tươi hoặc khô (Radix Clerodendri); Vỏ rễ được dùng dưới tên Địa cốt bì nam.
Phân bố: Phân bổ ở Triều tiên, Trung Quốc, Việt Nam, Malaixia. Ở nước ta, thường gặp Bọ mẩy trên các đồi hoang vùng trung du
Thu hái: Rễ và lá quanh năm. Rễ mang về rửa sạch, thái lát, phơi khô để dùng, lá dùng tươi hay sấy khô
Thành phần hoá học: Alcaloid.
Công năng: Thanh nhiệt, tả hoả, lương huyệt, giải độc, tán ứ, chỉ huyết.
Công dụng: Chữa sởi, viêm họng, chảy máu chân răng, trị lỵ cấp tính và viêm đại tràng mãn tính. Dùng uống sau khi đẻ để chữa ho, thông huyết.
Cách dùng, liều lượng: Ngày dùng 6-12g dưới dạng thuốc sắc, dùng riêng hay phối hợp với các vị thuốc khác.
Bài thuốc:
- Bệnh ôn nhiệt, sốt nóng mùa hè, chứng thực nhiệt, sốt cao, nhức đầu, tâm phiền khát nước, dùng 12-20g lá Bọ mẩy tươi nấu nước,hoà với đường cho uống.
- Trẻ em sốt bại liệt, sốt viêm não, sốt phát ban, quai bị, sốt xuất huyết: Bọ mẩy, kim ngân hoa, Thạch cao, Huyền sâm, mỗi vị 20g , Sắc uống.
- Ngộ độc Nhân ngôn hay Bã đậu: Dùng rễ Bọ Mảy tươi giã nhỏ, chế nước và vắt lấy nước cốt, hoà đường cát vào uống càng nhiều càng tốt để giải độc.
- Chữa lỵ trực trùng, dùng rễ Bọ Mảy, rễ Phèn đen, mỗi vị 15g sắc uống.
- Phụ nữ rong huyết: Ngó sen sấy khô, giã nát rồi trộn với rễ Bọ mẩy nấu nước uống với rượu, mỗi lần 1 muỗng canh.
- Cầm máu khi băng huyết: Lá Bọ Mảy tươi giã ra, thêm nước gạn uống.
- Viêm gan truyền nhiễm: Dùng lá và rễ Bọ mẩy tươi giã ra từ 15-30g nấu nước uống, cách 4 giờ một lần.
Kinh nghiệm điều trị của tôi: tôi hái lá và rễ, phân loại để chữa cho người bệnh thì thấy có tác dụng hạ nhiệt rất tốt do ôn bệnh mùa hè. Các bệnh thực nhiệt, lỵ, các bệnh đơn sưng, cảm sốt thể phong nhiệt, quai bị dùng chung hoặc phối hợp với các vị thuốc khác có kết quả rất tốt.
Ghi chú: Tránh nhầm lẫn lá cây Bọ Mảy với vị thuốc Đại thanh diệp (nhập từ Trung Quốc) là lá của cây Isatis tinctoria L.
Bài “Phát hiện cây Đại Thanh diệp tại Đà nẵng” của tác giả Trần Đình Niên đã cung cấp những thông tin về cây thuốc này và hảo tâm chia sẻ với chúng ta những kinh nghiệm sử dụng quý giá của mình. Tuy nhiên, có một chi tiết, theo thiển ý của tôi, có thể là nên xem xét thêm. Cụ thể: Rễ cây Bọ mẩy không phải là vị thuốc Bản lam căn trong Đông y Trung Quốc.
Bài “Phát hiện cây Đại Thanh diệp tại Đà nẵng” của tác giả Trần Đình Niên đã cung cấp những thông tin về cây thuốc này và hảo tâm chia sẻ với chúng ta những kinh nghiệm sử dụng quý giá của mình. Tuy nhiên, có một chi tiết, theo thiển ý của tôi, có thể là nên xem xét thêm. Cụ thể: Rễ cây Bọ mẩy không phải là vị thuốc Bản lam căn trong Đông y Trung Quốc.
Như ông đã viết: “Trong thuốc Bắc có hai vị thuốc Đại Thanh Diệp (lá), Bản lam căn (rễ) đều có tác dụng thanh nhiệt rất tốt, nhưng trên thị trường phải nhập của Trung Quốc nên thường rất đắt, đôi khi hiếm không tìm mua được. Đọc sách thuốc tôi được biết hai vị thuốc đó có cùng nguồn gốc từ một cây còn có tên là Bọ mẩy hay Đắng cẩy, mọc hoang ở vùng đồi trung du Bắc bộ và Trung bộ nước ta...”. Xin được trao đổi chi tiết hơn:
Về Đại thanh diệp và Đại thanh căn.
Trong Đông y Trung Quốc (Trung y), vị thuốc mang tên Đại thanh diệp là cành, lá của 5 cây khác nhau (trong số đó, 3 cây thấy mọc ở Việt Nam):
1- Cây Lộ biên thanh – Clerodendron cyrtophyllum Turcz. Thuộc họ Cỏ roi ngựa. Cây này ở Việt Nam gọi là Bọ mẩy, cũng chính là cây mà tác giả T.Đ Niên đã đề cập đến trong “ ống kính khắp nơi”, CTQ số 3, tháng 4 năm 2003.
2- Cây Liễu lam – Polygonum tinctorium Ait., thuộc họ Rau răm (Polygonaceae). Tại Việt Nam, cây có tên là Nghể chàm, mọc hoang ở Hà Tây, Ninh Bình,... và được trồng ở một số nơi để chế thuốc nhuộm.
3- Cây Mã lam – Baphicananthus cusia (Nees) Bremek.; còn có tên khoa học là Strobilanthes cusia (Nees) Kuntze. Thuộc họ Ô-rô (Acanthaceae). Tại Việt Nam gọi là cây Chàm mèo, mọc hoang ở các thung lũng ẩm ướt, núi đá; có mặt ở hầu hết các tỉnh miền núi phía Bắc, như Lào Cai, Sơn La, Hà Giang, Thái Nguyên...
4- Cây Tùng lam Isatis tinctoria L. thuộc họ Chữ thập (Brassicaceae). Theo sách Những cây thuốc và vị thuốc VN của GS Đỗ Tất Lợi, cây này không thấy ở nước ta. Cũng không có mặt trong Từ điển cây thuốc VN của TS Võ Văn Chi.
5- Cây Thảo đại thanh – Indigotica Fort., họ Chữ thập (Brassicaceae)- cũng chưa phát hiện thấy ở VN.
Trong khi vị thuốc Đại thanh diệp có thể là cành lá của nhiều loài cây, thì vị thuốc Đại thanh căn lại là rễ của một cây duy nhất: cây Lộ biên thanh - Clerodendron cyrtophyllum Turcz. đã nói ở trên. Trong sách thuốc Trung Quốc Đại thanh căn, còn có tên là Xú căn, Dã địa cốt (Phúc kiến dân gian bản thảo), Thổ địa cốt bì (Giang Tây dân gian thảo dược nghiệm phương).
Về vị thuốc Bản lam căn:
Bản lam căn là rễ của 3 loài cây:
1. Cây Tùng lam ( còn gọi là Đại lam) , tên khoa học là Isatis tinctoria L., họ Chữ thập (Brassicaceae). Chưa phát hiện thấy mọc ở VN; Không thấy mô tả trong Những cây thuốc và vị thuốc VN và Từ điển cây thuốc VN.
2. Cây Thảo đại thanh, tên khoa học là Isatis Indigotica Fort., họ Chữ thập (Brassicaceae)- Cũng chưa phát hiện thấy ở VN.
3. Cây Mã lam, tên khoa học là Baphicananthus cusia (Nees) Bremek., họ Ô-rô (Acanthaceae). Cây này ở Việt Nam gọi là Chàm mèo, như đã nói ở trên.
Như vậy đã có thể đưa ra hai nhận xét:
Cây Bọ mẩy ở Việt Nam cho ta 2 vị thuốc: Đại thanh diệp và Đại thanh căn.
Rễ cây Bọ mẩy không phải là vị thuốc Bản lam căn trong Đông y Trung Quốc.
Hiện tại cây thuốc chưa thấy khái thách tại việt nam chính vì vậy mà chưa có hàng,