Hậu phác là vị thuốc được sử dụng nhiều, được lấy từ cây vối rừng, người ta thu hoạch vỏ để phơi khô sử dụng
Hậu Phác (Cortex Magnoliae Officinalis) Hậu Phác còn có tên là Liệt phác, Xích phác, Xuyên phác
Dùng làm thuốc được ghi đầu tiên trong sách Bản kinh, là vỏ thân hoặc vỏ rễ phơi hay sấy khô của cây Hậu phác có tên thực vật là Magnolia officinalis Rehd et Wils hoặc cây Hậu phác lá lõm tên thực vật là Magnolia Officinalis Rehd et Wils var blioba Rehd et Wils, đều thuộc họ Mộc lan (Magnoliaceae).
Cây Hậu Phác chưa được phát hiện ở nước ta. Các thầy thuốc Việt nam và Nhân dân thường dùng nam Hậu phác, có thể là các loài sau:
- Hậu phác (Vối rừng): Magnolia hypoleuca Sieb et Zuc thuộc họ Mộc lan.
- Bá bệnh (Bách bệnh Hậu phác): Eurycoma longifolia Jack (Crassula pinata Lour) thuộc họ Thanh thất (Simarubaceae).
- Quế rừng (Hậu phác): Cinnamomum iners Reinw thuộc họ Long não (Lauraceae).
- Vối rừng (Syzygium jambololana (Lamk) Merr et Perry (Eugenia Jambolana lamk) thuộc họ Sim (Myriaceae).
Cây Hậu Phác Trung quốc mọc nhiều ở các tỉnh Tứ xuyên, Hồ bắc, Triết giang, Quí châu, Hồ nam. Hậu phác Tứ xuyên là tốt nhất gọi là Xuyên phác kế đến là Hậu phác Triết giang gọi là Ôn phác.
Lúc chế Hậu phác người ta ngâm thuốc vào nước đợi thấm đều, lấy ra cạo sạch vỏ khô, rửa sạch thái nhỏ đem phơi khô.
Chế Khương Hậu Phác, người ta thái Gừng tươi sắc nước rồi cho Hậu phác vào cùng sắc cho ngấm hết nước gừng, thái lát đem phơi (cứ 50kg Hậu phác dùng 5kg Gừng tươi).
Tính vị qui kinh:
Hậu phác vị cay, tính ôn, qui kinh Tỳ Vị Phế Đại tràng.
Theo các sách thuốc cổ:
- Sách Bản kinh: Vị đắng ôn.
- Sách Dược tính bản thảo: vị đắng cay đại nhiệt.
- Sách Lôi công bào chế dược tính giải: nhập 2 kinh Tỳ vị.
- Sách Bản thảo kinh sơ: nhập tucù thái âm, thủ túc dương minh kinh.
Thành phần chủ yếu:
Trong Hậu Phác có chừng 5% phenol gọi là magnolola, tetrahydromagnolola, Isomagnolola, có 1% tinh dầu thành phần chủ yếu là machilola, ngoài ra còn có onokiol, eudesmol, magnocurarine.
Tác dụng dược lý:
A.Theo Y học cổ truyền:
Hậu Phác có tác dụng hành khí tiêu tích, táo thấp, hạ khí tiêu đàm bình suyễn.
Chủ trị chứng tỳ vị tích trệ, thấp trở trung tiêu, tiết khái thấu khí suyễn.
Trích đoạn Y văn cổ:
- Sách Danh y biệt lục: " Ô trung ích khí, tiêu đàm hạ khí, trị thổ tả (hoắc loạn), bụng đầy đau, vị trung nghịch lãnh, nôn không cầm tả lî."
- Sách Bản thảo phát huy dẫn lời của Trương nguyên Tố: " năng trị phúc trướng, nếu nguyên khí hư nhược tuy bụng đầy cũng nên cân nhắc lúc dùng ."
- Sách Bản thảo kinh sơ: " Hậu phác khí vị cay ôn, tính đại nhiệt, chuyên về tả nhiệt tán mãn, làm ấm tỳ vị, tất cả các chứng ẩm thực đình tích, khí ũng bạo trướng cùng lãnh khí, nhịch khí, tích niên lãnh khí nhập phúc, trường minh hư hống, đàm ẩm thổ mạt (nôn ra đờm rãi), vị lãnh ẩu nghịch, phúc thống tiết tả, và người tỳ vị thực mà cảm phong hàn, người khí thực mà uống nhằm Sâm, Kỳ gây nên suyễn trướng thì Hậu phác là thuốc cần dùng. Thuốc tính chuyên tiêu đạo, tán mà không thu, không có tác dụng bổ ích".
- Sách Bản thảo hội ngôn, quyển 9: " cùng dùng với Chỉ thực, Đại hoàng, thì tả thực mãn, cho nên bài Đại Sài hồ thang có Hậu phác; dùng với Thương truật, Trần bì thì trừ thấp mãn nên trong bài Bình vị tán có Hậu phác; cùng dùng với Nhân sâm, Bạch truật trị hư mãn; cùng dùng với Bán hạ, Đởm tinh táo thấp thanh đàm; cùng dùng với Bạch truật, Cam thảo hòa trung kiện vị; dùng với Chỉ xác, La bạc tử có tác dụng hạ khí thông trường; dùng với Tía tô, Tiền hồ phát tán phong hàn; cùng dùng với Sơn tra, Chỉ thực sơ khí tiêu thực; cùng dùng với Ngô thù, Nhục quế có tác dụng hành thấp, táo âm. Đối với chứng thực thuốc có tác dụng lý khí hành khí. Nhưng chứng khí thịnh, thuốc dùng không phải là không xem xét, mà đối với chứng hư nên ít dùng".
B.Kết quả nghiên cứu dược lý hiện đại: hậu phác
- Magnolol (thành phần Phenol của Hậu phác) có tác dụng phòng ngừa lóet dạ dày trên thực nghiệm, có tác dụng ức chế histamin gây co thắt tá tràng, ức chế dạ dày tiết dịch.
- Thuốc sắc Hậu Phác có tác dụng kích thích ruột cô lập của chuột và chuột Hà lan. Thuốc cũng có tác dụng hưng phấn cơ trơn khí quản.
- Chất kiềm Hậu phác và hoa Hậu phác có tác dụng hạ huyết áp.
- Nước sắc thuốc có tác dụng kháng khuẩn rộng, trên thực nghiệm (in vitro) thuốc có tác dụng ức chế tụ cầu vàng, liên cầu khuẩn phổi, liên cầu khuẩn tán huyết, trực khuẩn lî và những nấm gây bệnh thường gặp.
Phụ chú: HOA HẬU PHÁC
Hoa Hậu phác vị cay tính ôn, khí thơm. Tác dụng hành khí hóa thấp như Hậu phác nhưng ít táo hơn, dùng cho trường hợp khí trệ, thấp trở gây nên bụng trên đầy, ăn không ngon.
Liều dùng và chú ý:
- Liều: 3 - 10g cho vào thuốc thang hoặc hoàn tán. Hoa Hậu phác: 3 - 6g.
- Trường hợp âm hư táo không dùng. Cần dùng thận trọng đối với phụ nữ có thai.
Hậu phác được sử dụng ở dạng sao vàng hạ thổ, người ta có thể sử dụng vỏ cây vối nhà cũng được, hậu phác được đóng gói 1kg để bảo quản.