Búpxanh 0977768823 - 0948808065
Giá: 350.000 VND
Đánh giá 2 lượt đánh giá
Cây mọc hoang ở các tỉnh phía bắc nhừ lào cai, yến bái, sapa, lạng sơn, người ta hái quả để phơi khô làm thuốc chữa bệnh, quả có mùi thơm đặc trưng được sử dụng trong rất nhiều bài thuốc.
Đại hồi chủ yếu thu hoạch ở các vùng đồi núi
Đại Hồi Cây hồi, còn có tên Đại Hồi, Đại Hồi hương, bát giác hồi hương, tiếng Bắc Kinh gọi là Bajiao, tên khoa học là Illicium verum, thuộc họ hồi (Illiaceae), thường bị lầm với cây hồi Nhật Bản (Illicium anisatum) hoặc cây hồi núi (Illicium griffithii) đều có chất độc. Ngoài ra, còn có cây tiểu hồi (Foeniculum vulgare, họ Apiaceae) được di thực từ các nước vùng Địa Trung Hải về trồng ở Việt Nam. Cây thân thảo nhỏ, nhìn qua rất giống cây thìa là, toàn cây khi vò nát cũng có mùi thơm của hồi. Dùng quả làm thuốc với tên hồi hương, thành phần chính cũng là tinh dầu (Anethol).
Trong dược liệu, khi nói đến đại hồi hay bát giác hồi hương là nói đến quả chín phơi khô của cây hồi.
Hồi là cây nhỡ, cao khoảng 2 - 6m, thân thẳng to, cành thẳng, nhẵn, dễ gãy, lúc non màu lục nhạt sau chuyển thành màu xám. Hoa mọc đơn độc ở nách lá, cánh hoa màu trắng ở phía ngoài, màu hồng ở phía trong. Quả hồi (dân gian thường gọi nhầm thành hoa hồi) gồm có 6-8 đại (cánh), có khi nhiều hơn, xếp thành hình sao, đường kính trung bình 2,5 - 3cm, lúc tươi có màu xanh, khi chín khô cứng có màu nâu hồng. Hạt nhỏ hình trứng, nâu nhạt, nhẵn bóng, nằm ở chính giữa mỗi đại khi nứt làm hai
Bộ phận làm thuốc chủ yếu là quả phơi khô để sử dụng chữa bệnh
Phân bố, thu hái
Ở Việt Nam, cây hồi được trồng chủ yếu ở các tỉnh phía bắc: Lạng Sơn, Cao Bằng, Quảng Ninh. Ở Trung Quốc, cây hồi được trồng chủ yếu ở 2 tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây, cung cấp 90% tổng sản lượng toàn cầu.
Thu hái quả chín vào tháng 7-9 và tháng 11-12, đem tách ra từng mảnh, bỏ hạt, rửa sạch rồi phơi trong mát hoặc nắng nhẹ cho khô hẳn.
Khi dùng, có thể đem tẩm rượu sao (cách giấy) hoặc tẩm nước muối sao qua (cách giấy). Cũng có thể đem chưng cất lấy tinh dầu.
Thành phần hóa học chính trong quả hồi là tinh dầu, nếu cất bằng phương pháp kéo hơi nước từ quả hồi tươi sẽ thu được hàm lượng 3-3,5%. Nếu để khô, hàm lượng đạt 9 - 10%. Tinh dầu là chất lỏng không màu hoặc vàng nhạt, có mùi thơm đặc biệt, chứa 80-90% anethol, còn lại là các terpen, terpineola, pinen, dipenten. limonen,… Trong lá hồi cũng chứa chủ yếu là tinh dầu nhưng không được dùng làm thuốc. Hạt hồi chỉ có dầu béo.
Theo Đông y, Đại Hồi có vị cay, ngọt, tính ôn (ấm), mùi thơm, có tác dụng kiện tỳ, khai vị, trừ đờm, tiêu thực, chỉ thống (giảm đau), sát trùng, vào 4 kinh Can, Thận, Tỳ, Vị. Thường dùng chữa nôn mửa, đầy bụng, đau bụng, tiêu chảy, giải độc của thịt cá, tay chân nhức mỏi. Mỗi ngày dùng 4-8g, dạng thuốc hãm, thuốc sắc, hoặc 1-4g dạng thuốc bột. Ngoài ra còn dùng quả hồi ngâm rượu cùng với một số dược liệu khác để xoa bóp chữa tê thấp, nhức mỏi.
Tây y cũng đã sử dụng quả hồi làm thuốc trung tiện, kích thích tiêu hóa, lợi sữa. Có tác dụng trên hệ thống thần kinh và cơ (giảm đau, giảm co thắt ruột), được dùng trong các bệnh lý đau dạ dày, ruột. Tuy nhiên, không nên dùng quá nhiều sẽ bị ngộ độc với các triệu chứng say, run tay chân, xung huyết não và phổi, có khi co giật như động kinh. Tinh dầu hồi có tác dụng kích thích, làm dễ tiêu, chống co giật, ức chế sự lên men ruột, long đờm và lợi tiểu nhẹ, là thành phần các thuốc trị ho, thuốc xoa bóp ngoài da, thuốc trị bệnh nấm da và ghẻ.
Quả hồi còn được dùng làm hương liệu, người ta chế rượu hồi (làm rượu khai vị), làm thơm kem đánh răng. Quả hồi là thành phần không thể thay thế trong một số gia vị như bột cà-ri, bột nêm ngũ vị hương và là nguyên liệu không thể thiếu trong món phở.
Trị hàn sán (bụng và rốn quặn đau, dịch hoàn sưng).
Đại hồi (sao với muối) 40g, Mộc hương 40g, Sa sâm 40g, Xuyên luyện tử 40g. Tán bột, làm hoàn. Ngày uống 12-16g với rượu hoặc nước sôi pha muối loãng. Bệnh nhẹ uống 1 liều là hết, bệnh nặng uống tiếp liều thứ hai.
Trị choáng, trụy mạch, huyết áp tụt.
Đại hồi 4g, Gừng khô 4g, Gừng tươi 4g, Nhục quế 4g. Sắc uống.
Chữa đau răng
Bột phèn phi 30g, đại hồi 10g, kê nội kim còn gọi (màng mề gà) đốt tồn tính 10g. Cả 3 vị tán thành bột mịn, trộn đều, cho vào lọ nút kín dùng dần. Khi dùng, xát bột thuốc vào chỗ răng sâu hoặc chỗ lợi viêm, chảy máu.
Đau lưng:
Hồi (bỏ hạt) tẩm nước muối sao, tán nhỏ, mỗi lần dùng 6-10g với rượu. Ngoài dùng lá Ngải cứu chườm nóng vào lưng.
Hôi miệng, thở hôi:
Dùng hoa Hồi nhai nuốt, mỗi ngày vài cánh.
Đại tiểu tiện không lợi:
Hồi và Bìm bìm như trên tán bột mỗi lần uống 4g với nước gừng.
Tiiêu hoá ăn uống không tiêu, nôn mửa đau nhức tê thấp:
Mỗi ngày dùng 4 đến 8g dưới dạng thuốc sắc.
Chữa cổ trướng và thũng trướng mạn tính:
Dùng Hồi hương 2g và hạt Bìm bìm 8g, tán bột, chia làm 2-3 lần uống trong ngày. Uống trong 3-4 ngày liền.
Đại hồi hay còn gọi là hoa hồi, quả hồi có mùi thơm đặc biệt chủ yếu dùng làm gia vị để nấu đồ ăn, quý khác có nhu cầu hãy liên hệ với chúng tôi
Quả hồi khô đạt chất lượng cao làm thuốc, gia vị xuất khẩu
địa chỉ bán đại hồiquả hồicông dụng đại hổihoa hồibán hoa hồiở đâu bán hoa hồihoa hồi bán ở đâucây đại hồibán đại hồiđại hồi bán ở đâuđại hồi mua ở đâuvị thuốc đại hồimua đại hồi ở đâucung cấp đại hồiphân phối hoa hồi
ĐC: E67 Đường Phú Thuân , Phường Phú Thuận, Quận 7, Hồ Chí Minh
GPKD: 41G8026476 ngày 30/07/2015 - MST: 8127680551
Email:duoclieubupxanh@gmail.com
Website: https://trungtamduoclieu.vn