Búpxanh 0977768823 - 0948808065
Giá: 200.000 VND
Đánh giá 1 lượt đánh giá
Chỉ xác được làm từ quả bưởi non, quý khách cần sử dụng hãy liên hệ với chúng tôi.
Chỉ xác" là thảo dược khá thông dụng trong Đông y; vị đắng, tính hàn, vào hai kinh tỳ, vị; tác dụng phá khí, tiêu tích, hoá đàm...
-"Việt Nam tự điển" (Hội Khai Trí Tiến Đức-1931)giải nghĩa: "chỉ-xác • Tên một vị thuốc. Tức là vỏ bưởi non phơi khô <> Nhiều tiền thì hoàng-cầm, hoàng-kỳ, ít tiền thì trần-bì, chỉ-xác".
-"Từ điển tiếng Việt" (Văn Tân chủ biên-1967):"chỉ xác• d. Tên một vị thuốc làm bằng vỏ bưởi non phơi khô".
-"Việt Nam tự điển" (Lê Văn Đức-Lê Ngọc Trụhiệu đính-Sài Gòn-1970): "chỉ xác• dt. (tb): Vỏ bưởi phơi khô, khí lạnh, vị đắng và chua, không độc nhưng đàn-bà có thai không được dùng".
-"Từ điển tiếng Việt" (Chuyên từ điển New Era-2013): "chỉ xác: vỏ trái bưởi dùng làm thuốc trong Đông y".
-"Từ điển từ và ngữ Hán Việt" (1989) và "Từ điển từ và ngữ Việt Nam" (2006) của GS Nguyễn Lân đều giảng giống nhau:"chỉ xác (Hán. chỉ: cây bưởi; xác: vỏ) Vị thuốc làm bằng vỏ bưởi phơi khô: Nhiều tiền hoàng cầm hoàng kỳ, ít tiền trần bì chỉ xác (tục ngữ)".
Các nhà biên soạn từ điển đều khẳng định rõ ràng như vậy. Nhưng rất tiếc đây lại là sự ngộ nhận, dẫn đến sai lầm theo kiểu "Dĩ hư truyền hư".
Du 柚, hay du tử 柚子 mới là bưởi, còn "chỉ" là cây quýt hôi, hay chanh gai. "Hán Việt tự điển" của Thiều Chửu giảng rõ ràng như sau:"枳[chỉ] ① Cây chỉ (cây chanh gai) dùng làm thuốc được, như chỉ thực 枳實 thứ quả hái còn non, chỉ xác 枳殼 thứ quả hái đã già"; "Hán Việt tự điển" (Trần Văn Chánh): "枳 [chỉ] [Pinyin: zhǐ] (thực) Cây câu quất, cây quýt hôi, cây chanh gai. Cũng viết: 枸橘 [goujú]".
Sách "Danh từ thuật ngữ y học cổ truyền" (NXB Y học-2015), phần "dược" chép về "chỉ xác" như sau: "Chỉ xác (枳殼) Tên khác: Chanh xác-Trấp-Chấp-Quả trấp già. Bộ phận dùng: Quả của các loại cây Trấp (Citrus hystrix D.C), họ Cam (Rutaceae), hái lúc đã khá to nhưng còn xanh, phơi sấy khô. Tên khoa học: Fructus Citri".
Sách "Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam" (Đỗ Tất Lợi) mục "chỉ thực" viết như sau: "Chỉ thực 枳實: còn gọi chỉ xác, xuyên chỉ thực, xuyên chỉ xác. Tên khoa học Citrus sp. Thuộc họ Cam Rutaceae. Chỉ thực (Fructus Aurantii immaturi) và Chỉ xác (Fuctus Citri aurantii), đều là quả phơi khô của chừng hơn 10 cây chi Citrus và Poncirus và Poncirus thuộc họ Cam Rutaceae nhưng thu hái ở thời kỳ khác nhau. Chỉ thực là quả hái vào lúc còn non nhỏ, có khi bị gió mạnh tự rụng dưới gốc cây (theo chữ Trung Quốc, chỉ là tên cây, thực là quả). Chỉ xác là quả hái vào lúc gần chín, thường bổ đôi. Chỉ vẫn là tên cây, xác là vỏ và xơ, vì quả bổ đôi phơi khô ruột quả bị quắt lại".
Chúng tôi cẩn thận tra tìm mục "Bưởi 柚" (du 柚) trong sách "Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam" của Đỗ Tất Lợi, xem vỏ quả bưởi có còn được gọi, hay được dùng thay cho "chỉ xác" 枳殼haykhông. Kết quả, các bộ phận của bưởi được dùng làm thuốc như: lá, vỏ quả, vỏ hạt, dịch ép múi bưởi...không có bộ phận nào được gọi, hay liên quan gì đến "chỉ xác".
Vậy tại sao lại có sự nhầm lẫn giữa quả khô của cây "câu quất", "quýt hôi", "chanh gai"... với "vỏ bưởi khô" như vậy? Theo chúng tôi, trong trường hợp "què vị" (thiếu vị), các thầy thuốc Đông y thường tìm cách "thay vị" có công dụng tương đương, hoặc gần tương đương. Có lẽ ông lang vườn nào đó, vì què vị "chỉ xác", nên đã liều thay bằng "vỏ quả bưởi khô". Tuy nhiên, dẫu có như vậy, thì với người biên soạn từ điển, "chỉ xác" 枳殼vẫn là "chỉ xác", chứ không thể biến thành "vỏ quả bưởi khô". Mặt khác, tuy có cùng họ Cam, nhưng dược tính của "chỉ xác" và "bưởi" khác nhau. Bởi vậy, sách "Đông y toàn tập" (Nguyễn Trung Hoà-NXB Thuận Hoá-2015) khi chép về "chỉ xác" đã phải lưu ý như sau: "Chỉ xác (Vỏ quả trấp) Citrus aurantium.L. Họ Cam quýt (Rutaceae). Bộ phận dùng: Quả trắp già. Dùng thứ quả gần chín, còn xanh vỏ, đã bổ đôi, cùi càng dày càng tốt, mùi thơm, ruột bé, trắng ngà, để lâu năm, cứng chắc không ẩm mốc là tốt. Không nhầm với quả Bưởi hay Cam hôi (hai thứ này thịt xốp cùi mỏng, không bào chế được)".
Tên vị thuốc liên quan trực tiếp bệnh tật, sức khoẻ con người. Các nhà biên soạn từ điển cần tra cứu cẩn thận, phát hiện ra nhầm lẫn, sai sót của người đi trước, kế thừa cái đúng, loại bỏ cái sai. Nếu không cụ thể, chính xác như từ điển chuyên ngành, thì ít ra giảng nghĩa khái quát như "Từ điển tiếng Việt" (Trung tâm từ điển học Vietlex):"chỉ xác• 枳殼 d.vị thuốc đông y chế biến từ quả già sấy khô của một số cây họ cam quýt".
Trị răng đau nhức:
Chỉ xác ngâm rượu súc miệng (Thánh Huệ Phương).
Trị trẻ nhỏ lỵ lâu ngày, tiêu ra cơm nước không đều:
Chỉ xác, tán bột, mỗi lần uống 4 – 8g (Quảng Lợi Phương).
Cầm lỵ, thuận khí:
Chỉ xác sao 96g, Cam thảo 24g, tán bột. Mỗi lần uống 8g với nước sôi (Anh Đồng Bách Vấn Phương).
Trị lở đau sưng:
Chỉ xác nướng nóng, chườm vào đó 7 trái (Bí Hiệu Phương).
Trị trẻ nhỏ đi tiêu khó:
Nướng Chỉ xác, bỏ múi, Cam thảo mỗi thứ 4g, sắc uống (Toàn Ấu Tâm Giám Phương).
Trị lở đau sưng:
Dùng bột Chỉ xác, bỏ vào trong bình nấu sôi thật lâu trước xông sau rửa (Bản Sự Phương).
Trị đau bụng khi có thai:
Chỉ xác 120g, sao với cám. Hoàng cầm 40g. tán bột. Mỗi lần uống 20g với 1 chén rưỡi nước, nếu có phù bụng căng thêm Bạch truật 40g (Hoạt Pháp Cơ Yếu Phương).
Trị nấc cụt do thương hàn:
Chỉ xác 20g, Mộc hương 4g tán bột, mỗi lần uống 4g, với nước sôi, chưa bớt thì uống tiếp (Bản Sự phương).
Tri ruột xệ xuống sau khi đẻ:
Chỉ xác, sắc lấy nước ngâm, đợi ít lâu thì rút vào (Tụ Trân Phương).
Trị trẻ nhỏ bị chứng nhuyễn tiết (mụn nhọt mềm có nước):
Chỉ xác 1 trái lớn (không lấy loại trắng), mài cho bằng miệng rồi lấy hồ miến bôi quanh miệng, úp lên trên đầu miệng mụn thì có thể tự ra hết máu mủ và không có sẹo (Thế Y Đắc Hiệu Phương).
Lợi khí sáng mắt:
Chỉ xác 40g, sao, tán bột, uống với nước (Tuyên Minh Phương)
Trị thương hàn âm chứng, do uống thuốc lầm hạ quá sớm sinh đầy tức ngực nhưng không đau, đè vào thấy mềm:
Chỉ xác, Binh lang 2 vị bằng nhau, tán bột, mỗi lần uống 12g với nước sắc Hoàng liên (Tuyên Minh Phương).
Trị trẻ nhỏ nôn mửa, động kinh, nghẹn đờm , co giật:
Chỉ xác bỏ múi sao với cám, Đạm đậu khấu, 2 vị bằng nhau, tán bột, mỗi lần uống 1/2 muỗng cà phê, nặng thì 1 muỗng. Nếu cấp kinh phong dùng Bạc hà giã vắt lấy nước uống với thuốc. Nếu mạn kinh phong dùng Kinh giới nấu uống với 3-5 giọt rượu, ngày 3 lần (Bất Kinh Hoàn - Tiểu Nhi Phương).
Trị tiêu ra máu:
Chỉ xác 240g sao với cám, Hoàng kỳ 240g, tán bột. Mỗi lần uống 8g với nước cơm, hoặc trộn với hồ làm viên uống (Kinh Nghiệm Phương).
Tiêu tích thuận khí, trị ngũ tích lục tụ, dùng cho cả già lẫn trẻ:
Chỉ xác 3 cân bỏ múi, mỗi trái bỏ vào 1 hạt Ba đậu nhân, rồi úp vào cho kín, nấu lửa nhỏ 1 ngày, cạn nước đổ thêm, khi thêm phải đổ nước nóng vào, đợi cho nước cạn, bỏ Ba đậu đi, lấy Chỉ xác phơi nắng, sao, tán bột, dùng bột trộn giấm làm viên to bằng hạt Ngô đồng. Mỗi lần uống 30-40 viên (Thiệu Chân Nhân Kinh Nghiệm Phương).
Trị vùng xương sườn đau nhức vì sợ quá mà tổn thương tới khí:
Chỉ xác (sao) 40g, Đào chi (sống) 20g, tán bột. Mỗi lần uống 4g với nước sắc Gừng và Táo (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).
Trị bụng đầy, người lớn cũng như trẻ nhỏ, khí huyết ngưng trệ:
“Tứ Diệu Hoàn” gồm Chỉ xác đầy mà lưng còn xanh, bỏ múi đi, lấy 160g chia làm 4 phần, 40g sao với Thương truật, 40gsao với La bặc tử, 40g sao với Hồi hương, 40g sao với Can tất, xong bỏ các vị ấy đi, lấy Chỉ xác, tán bột dùng. Lấy 4 vị trước sắc lấy nước trộn bột gạo làm thuốc viên to bằng hạt ngô đồng. Mỗi lần uống 50 viên với nước cơm, sau khi ăn (Giản Dị Phương).
Trị uất khí ở thượng tiêu làm đầy sinh vì hàn:
Chỉ xác, Tô tử, Quất bì, Cát cánh, Mộc hương, Bạch đậu khấu, Hương phụ (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
Trị tiêu ra máu giai đoạn đầu:
Chỉ xác, Hoàng liên, Hòe hoa, Can cát, Phòng phong, Kinh giới, Thược dược, Hoàng cầm, Đương quy, Sinh địa, Địa dư, Trắc bá diệp (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
Trị lỵ, mót rặn:
Chỉ xác, Binh lang, Thược dược, Hoàng liên, Thăng ma, Cát căn, Cam thảo, Hồng khúc, Hoạt thạch (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
Trị khí hư, đại tiện khó:
Chỉ xác, Nhân sâm, Mạch môn đông (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
Trị ngứa do phong chẩn:
Chỉ xác, Kinh giới, Khổ sâm, Phòng phong, Thương nhĩ thảo, Bại bồ, nấu nước tắm gội (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
Trị đau ở hông sườn phải
Chỉ xác, Nhục quế (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
Chỉ xác được đóng gói 1kg để bảo quản để sử dụng, quý khách có nhu cầu hãy liên hệ với chúng tôi.
ĐC: E67 Đường Phú Thuân , Phường Phú Thuận, Quận 7, Hồ Chí Minh
GPKD: 41G8026476 ngày 30/07/2015 - MST: 8127680551
Email:duoclieubupxanh@gmail.com
Website: https://trungtamduoclieu.vn